Cách trung tâm Hà Nội hơn 30 km, làng Chuông (Thanh Oai, Hà Nội) đã hơn 300 năm nổi tiếng với nghề làm nón lá. Chiếc nón làng Chuông đã in đậm dấu ấn của người phụ nữ Việt Nam và "chu du" khắp chân trời, góc bể.
Cho dù trải qua biết bao thăng trầm, nón làng Chuông vẫn tồn tại và phát triển - Ảnh: Sưu tầm
Làng Chuông xưa kia nức tiếng về nghề nón, nón cổ cũng rất đa dạng với nhiều mẫu mã để phục vụ nhiều đối tượng khác nhau. Vào các ngày 4, 10, 14, 20, 24, 30 hàng tháng, phiên chợ nón lại tấp nập; các mẹ, các chị lại nhộn nhịp ra chợ để chào bán sản phẩm độc đáo của quê hương.
Một làng nghề đã có hơn 300 tuổi - Ảnh: Sưu tầm
Lá nón được lấy từ một loại cây họ nhà cọ ở vùng núi non Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An. Người ta phải lựa loại lá màu sáng và xanh đều thì nón mới đẹp. Lá khi được mua về sẽ được vò trong cát để lá mềm rồi mới đem phơi khoảng hai, ba nắng cho đến khi màu xanh của lá chuyển thành màu bạc trắng. Sau đó người thợ dùng chiếc giẻ bọc vào lưỡi cày hơ trên than củi sao cho nhiệt độ vừa phải để là lá cho phẳng mịn. Công đoạn này đòi hỏi người thợ phải cẩn thận, căn cho nhiệt độ sao cho vừa phải để chiếc lá không bị cháy, đỏ. Nếu nhiệt độ không đủ, chiếc lá sẽ bị sống, không bóng đẹp.
Xem thêm: Các khách sạn tại Nghệ An
Lá nón được đem phơi 2,3 nắng trước khi thực hiện công đoạn làm nón - Ảnh: Sưu tầm
Xem thêm: Các khách sạn tại Hà Nội
Vòng nón ở làng Chuông được làm bằng cật nứa vót nhỏ và đều. Khi nối, bắt buộc vòng nón phải tròn và chỗ nối không có vết. Khác với nón thường có 20 lớp vòng, nón làng Chuông có 16 lớp vòng giúp nón có độ bền chắc nhưng vẫn mềm mại. Vòng nón sau khi được hoàn thành sẽ được xếp vào khuôn, sau đó sẽ xếp từng lá vào vòng nón. Lá sẽ có hai lớp, một lớp mo tre và ngoài cùng là một lớp lá nữa. Người khâu nón cũng được ví như người thợ thêu. Bàn tay người thợ cầm kim đưa nhanh thoăn thoắt, mềm mại từng mũi khâu, thẳng đều từ vòng trong ra vòng ngoài.
Bà phơi vành nón - Ảnh: Sưu tầm
Khung nón - Ảnh: Sưu tầm
Xem thêm: Các khách sạn tại Chương Mỹ
Công đoạn "khâu nón" là công đoạn khó nhất của nghề nón, thể hiện sự tài tình khéo léo của người thợ. Người thợ giỏi là người khi khâu bảo đảm nón không bị nát lá, không bị lộ chân kim, đường kim mũi chỉ phải đều tăm tắp, chặt chẽ, khi soi lên mặt trời không thấy kẽ hở. Chiếc nón hoàn tất khi kết thúc công đoạn làm nôi, tức phần buộc quai nón, tùy nón mà nôi pha mầu, phối mầu. Ðể tránh thấm nước, người thợ sẽ phết phía ngoài lớp quang dầu thông mỏng.
Cháu bé làng Chuông đan nón giúp mẹ - Ảnh: Sưu tầm
Cái tài của người thợ làng Chuông là các múi nối sợi móc được dấu kín, khiến khi nhìn vào chiếc nón chỉ thấy tăm tắp những mũi khâu mịn màng. Sợi móc len theo từng mũi kim qua 16 lớp vòng thì chiếc nón duyên dáng đã hình thành. Khi chiếc nón được khâu xong, người thợ hơ bằng hơi diêm làm cho màu nón trở nên trắng muốt và giúp nón không mốc. Cẩn thận hơn có thể quang dầu bên ngoài nón để làm cho nón bóng, đẹp và bền lâu.
Nón làng chuông vốn rất đẹp và bền - Ảnh: Sưu tầm
Xem thêm: Các khách sạn giá rẻ tại Hà Nội
Trong lúc khâu nón, các cô gái làng Chuông trang trí cho chiếc nón đẹp như dán vào lòng nón những hình hoa lá bằng giấy nhiều màu sắc. Tinh tế hơn, là dùng chỉ màu khâu giăng mắc ở hai điểm đối diện trong lòng nón để từ đó có thể buộc quai nón bằng những giải lụa mềm mại, đủ màu sắc, làm tôn thêm vẻ đẹp khuôn mặt các cô gái dưới vành nón.
Nghề làm nón được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, chủ yếu là những người phụ nữ bằng sự khéo léo của đôi bàn tay đã tạo ra những chiếc nón xinh xắn, bền đẹp. Các cô gái biết làm những chiếc nón đầu tiên từ khi bảy, tám tuổi. Người giỏi mỗi ngày thắt được hai, ba chiếc nón đẹp.
Người dân làng chuông từ già đến trẻ nhỏ đều biết làm - Ảnh: Sưu tầm
Xem thêm: Tour du lịch Hà Nội
Suốt cuộc đời người phụ nữ làng Chuông đã có không biết bao nhiêu chiếc nón được làm ra từ đôi bàn tay họ. Trong mỗi gia đình, người già người trẻ đều có thể tham gia vào những công việc làm nón. Người trẻ tinh mắt, khéo tay thắt những mũi thắt đều đặn làm cho chiếc nón càng có giá.
Người làng Chuông còn sáng tạo nón lá kết hợp với lụa Hà Ðông, nón lưu niệm, nón Bồ Hụp, nón Thái... - Ảnh: Sưu tầm
Chiếc nón lá từ bao đời nay đã gần gũi, quen thuộc đối với người phụ nữ Việt Nam, chẳng hề phân biệt giàu - nghèo, hèn - sang, từ người nông dân đến các thiếu nữ nơi đô thị. Trải qua thời gian và đổi thay của đời sống, nhưng những chiếc nón vẫn theo các bà, các mẹ, các chị hằng ngày không chỉ che mưa, che nắng mà còn tạo nên cái "duyên" rất đặc sắc, trở thành nét văn hóa của dân tộc Việt, làm ngỡ ngàng bao du khách nước ngoài.
0 Thích